Vừng đen nguồn gốc có từ Châu Phi, sau đó được đưa vào vùng tiểu Á (Babylon) và được di về phía Tây - vào châu Âu và phía Nam vào châu Á dần dần được phân bố đến Ấn Độ và một số nước Nam Á, Trung Quốc. Ấn Độ được xem như là trung tâm phân bố của cây vừng (mè) đen. Ở Nam Mỹ, vừng (mè) đen được du nhập qua từ Châu Phi sau khi người Âu Châu khám phá ra ở Châu Mỹ.
Hiện nay, hàng năm trên thế giới đạt sản lượng khoảng 2 triệu tấn vừng đen. Trong đó các vùng trồng chính như:
- Châu Á: Sản xuất 55 - 60% sản lượng trên thế giới
- Châu Mỹ: 18 - 20%
- Châu Phi: 18 - 20%
Ngoài ra, Châu Âu và Châu Đại Dương cũng có trồng rãi rác nhưng không đáng kể.
Các nước trồng nhiều mè trên thế giới:
- Ấn Độ: Đứng đầu thế giới với sản lượng khoảng 4.000.000 tấn/năm.
- Trung Quốc nước sản xuất lớn thứ 2: 320.000 - 350.000 tấn/năm. Ở Trung Quốc vừng được trồng tập trung ở 4 tỉnh, Hà Nam, Hồ Bắc, An Huy và Giang Tây, chiếm 78,1% diện tích vừng cả nước, trong đó Hồ Bắc cho năng suất cao nhất 15,12 tạ/ ha
- Sudan (Châu Phi): 150.000 – 200.000 tấn/năm.
- Mexico (Châu Mỹ): 150.000 – 180.000 tấn/năm.
Các nước có sản lượng tương đối lớn khác là: Burma, Pakistan, Thailan (châu Á); Nigiêria, Tanazania, Uganda (Châu Phi); Colombia, Venezuela (Châu Mỹ).
Tại Việt nam cây vừng (mè) đen là sản phẩm nông nghiệp truyền thống gắn với đời sống lao động, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người nông dân Việt Nam từ xưa đến nay. Vừng đen là cây lấy dầu có giá trị kinh tế cao, có thời gian sinh trưởng ngắn, là cây dễ tính, ít phải chăm sóc, vốn đầu tư thấp. Đặc biệt, là cây chống chịu hạn rất tốt nên là đối tượng được lựa chọn để chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong điều kiện biến đổi khí hậu như hiện nay nhằm cho hiệu quả kinh tế cao trên đơn vị diện tích.
So với cây lúa, vừng cho hiệu quả kinh tế cao gấp 5 lần. Ngoài ra, vừng còn có nhiều chất dinh dưỡng rất tốt cho sức khỏe và xuất hiện nhiều trong các món ăn của người Việt Nam. Chính vì vậy, vừng đen được trồng ở khắp các vùng sinh thái trong cả nước, tuy nhiên vùng tập trung của nó là ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.
Trồng vừng đen còn giúp bảo vệ độ phì nhiêu của đất, tăng năng suất cây trồng và giúp tăng thu nhập trên cùng một đơn vị diện tích đất nông nghiệp, nâng dần mức sống người dân đạt tiêu chí thu nhập.
Ở Việt Nam, vừng được trồng lâu đời nhất là ở Miền Bắc, nhưng diện tích không mở rộng được vì điều kiện khí hậu và đất đai không thích hợp cho cây trồng phát triển.
Tại tỉnh An Giang, diện tích trồng mè hiện nay tăng lên đến 16.000 ha. Tại vùng Châu Phú, An Giang, năng suất đạt từ 400 - 600 kg/ha. Nếu áp dụng biện pháp canh tác thích hợp, năng suất vừng (mè) có thể đạt 1 – 1,2 tấn/ha;
Tại Long An hiện có khoảng 1.300 ha vừng đen, chủ yếu được trồng tại 2 huyện Tân Hứng và Vĩnh Hưng.
Tại Cần Thơ có khoảng 5.000 ha vừng đen, chủ yếu được trồng tại Thốt Nốt và Ô Môn. Năng suất trung bình khoảng 1-1,23 tấn/ha.
Nghệ An là tỉnh có diện tích đất nông nghiệp lớn, điều kiện khí hậu thổ nhưỡng rất phù hợp để phát triển cây vừng đen, là một trong những tỉnh có quy mô vừng lớn. Tại đây vừng được trồng trên các vùng đất cát pha, đất ven biển, đất đồi núi, tập trung nhiều ở một số huyện như: Diễn Châu, Nghi Lộc, Nam Đàn, Thành phố Vinh, Tân Kỳ, Quỳnh Lưu… trong đó nhiều nhất là huyện Diễn Châu chiếm 50 – 60% diện tích toàn tỉnh; sản xuất ở cả 3 vụ Đông Xuân, Hè Thu, Mùa. Năm 2019 diện tích trồng toàn tỉnh là 2.974,24 ha, năng suất bình quân đạt 7,41 tạ/ha, sản lượng 2196,69 tấn.
Đắk Lắk có diện tích đất nông, lâm nghiệp lớn, điều kiện khí hậu thổ nhưỡng rất phù hợp để phát triển cây vừng đen. Tuy vậy, hiện nay tại Đắk Lắk là một trong những tỉnh có quy mô trồng vừng đen còn khiêm tốn trên cả nước, mới chỉ có một số huyện có trồng vừng đen như M’Đắk (xã Cư Prao); huyện Ea Kar (xã Ea Sar, Ea Sô); huyện Krông Pắc (xã Ea Phê, Vụ Bổn); đặc biệt là nông dân huyện Ea Súp đang áp dụng thành công mô hình trồng mè xen canh với lúa đông xuân và hè thu, với hơn 200 ha vừng (mè) đen, phân bố tập trung nhiều tại các xã Ea Bung, Ea Lê, Ya Tờ Mốt… cho năng suất đạt 1,2 tấn/1 ha vừng đen. Chi phí đầu tư sản xuất thấp, kỹ thuật canh tác khá dễ và phù hợp với điều kiện địa phương nên diện tích áp dụng mô hình xen canh “2 vụ lúa, 1 vụ vừng” ở huyện Ea Súp ngày càng tăng. Tuy nhiên, để nhân rộng các diện tích trồng vừng tại huyện Ea Súp cần tăng cường hỗ trợ cho nông dân về biện pháp kỹ thuật chăm sóc loại cây trồng này, nhất là kỹ thuật xử lý mè sau khi thu hoạch để bảo đảm chất lượng sản phẩm.
Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu của vừng đen tại Đắk Lắk nói riêng và của Việt Nam nói chung chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương do quy trình kỹ thuật chăm sóc theo truyền thống, chưa áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất lúa, giống chưa chọn lọc… hơn nữa giá cả thị trường vừng đen không ổn định do nông dân chưa đảm bảo được đầu ra, thường xuyên bị các thương lái ép giá.
Với giá trị kinh tế khá cao, diện tích vừng đen có khả năng sẽ được mở rộng trong thời gian tới. Tuy nhiên, khó khăn nhất hiện nay đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu vẫn là bài toán liên kết trong sản xuất và tiêu thụ, giúp ổn định nguồn nguyên liệu. Vì vậy, các hợp tác xã, các hộ nông dân cần có hợp đồng liên kết bền vững hơn nhằm ổn định sản xuất.